Trong
tình trạng đại dịch coronavirus đang hoành hành khắp thế giới, và Giáo Hội đang
chuẩn bị bước vào tuần thánh mừng mầu nhiệm Thương Khó, Chết, và Sống Lại của Đức
Giêsu Kitô qua nghi thức phụng vụ chưa từng có trong lịch sử, đó là, giáo dân
tham dự phụng vụ qua màn hình của truyền thông hiện đại, tâm tư giáo dân xoay
quanh câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa để những
đau khổ này xảy ra? Ngài có thật sự yêu thương con người không? Hay Thiên Chúa
có trừng phạt con người vì tội lỗi của họ không?
Một
số người còn thêm kịch tính khi cho rằng bí mật thứ Ba của sứ điệp Fatima chưa
được tiết lộ… Vì thế, đại dịch covid-19 này là bí mật thứ ba được Đức Mẹ báo
trước từ năm 1917.[1]
Tôi
muốn chia sẻ với anh em vài điểm đáng chú ý khi chúng ta giải thích tương quan
giữa Sự dữ (evil) và Thiên Chúa trong các bài giảng.
Thứ nhất,
cần nhấn mạnh: sự dữ và đau khổ là một
huyền nhiệm (mystery). Ta không biết nó đến cách nào, và tại sao nó tồn tại.[2]
Ngay cả khoa học cũng không biết tại sao, vì khoa học chỉ cắt nghĩa được những
hiện tượng xảy ra mà thôi. Cũng như ta đọc Kinh Thánh, tác giả không hề nói tại
sao hay cách nào con rắn đến với con người, mà chỉ đơn giản nói việc con rắn xuất
hiện cám dỗ hai ông bà nguyên tổ, một biểu tượng của sự dữ trong đời sống con
người.
Thánh
Phao lô đã nói: “Điều tôi muốn tôi không
làm, và tôi làm điều tôi không muốn” (Rm 7:15),
như một thú nhận trước mầu nhiệm cuộc sống. Sự dữ là một huyền nhiệm. Vì thế,
ta không thể chấp nhận những câu trả lời đơn giản cho những câu hỏi hóc búa,
hay những câu trả lời từ chối trách nhiệm cá nhân (như Satan khiến tôi làm…)
hay cho rằng sự dữ không có thực, hay ta không đánh giá đúng mức sự thương khó
(đau khổ) của Đức Kitô, Đấng đồng cảm với những đau khổ của con người.
Thứ hai,
loại bỏ tư tưởng vô cảm khi cho rằng sự
dữ và đau khổ là ý niệm tương đối, nghĩa là, nó không thật sự là sự dữ nếu
không gây đau khổ cho ta. Ví dụ, động đất là động đất, và nó không thật sự là sự
dữ hay gây đau khổ nếu xảy ra trong vùng hoang vu, không bóng người. Rắn độc tự
nó là rắn độc, nhưng không là sự dữ nếu không cắn ta. Ngay cả những lý luận gần
hơn như bệnh nhân ung thư chết hàng ngàn người trong một ngày, nhưng ta không
quan tâm đơn giản vì ta không biết họ, hay sự dữ không trực tiếp ảnh hưởng đến
ta. Chỉ khi nào “xui xẻo” đến với ta hay gia đình, người thân… lúc đó ta mới
cho nó là sự dữ (và đau khổ).
Ta
cần khơi dậy ý thức cộng đoàn, nghĩa là, tất cả đều là con Thiên Chúa. Đức tin
Công Giáo không cho phép ta vô cảm trước những đau khổ của tha nhân, bất kể người
đó ở đâu hay đến từ đâu. Chỉ có Đức Giê su mới dạy môn đệ Ngài “hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho ai ngược đãi con” mà thôi
(cf. Mt 5:44).
Thứ ba,
ta luôn tìm thấy “may trong rủi”. Vì
ta không có kiến thức tương lai, và ta bị hạn chế trong những khủng hoảng đang
có, nên ta quên những cái tốt do những khủng hoảng này mang lại. Ví dụ, cái chết
một người có thể đem lại bình an cho gia đình; việc phong tỏa và cách ly trong
thời gian gần đây giúp con người ý thức hơn về giá trị cuộc sống, về những
hoang phí thời gian hay tiền bạc họ đã làm, về sự cần thiết gần gũi nhau trong
gia đình giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái… Tính lạc quan giúp ta luôn tìm được
lý do để tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh (1 Tx 5,18). Ta luôn nhớ rằng sự dữ
tự nó không có cái kết, mà cuối cùng nó sẽ bị đánh bại, rằng chúng ta không bao
giờ bị Thiên Chúa bỏ rơi. Vì thế, hãy nhìn những sự kiện diễn ra trong đức tin
vào Thiên Chúa, hơn là tìm Thiên Chúa trong lăng kính của những diễn tiến này.
Thứ tư,
cẩn thận khi cắt nghĩa rằng mọi sự xảy ra
đều là Ý Chúa. Dĩ nhiên điều này không đúng (nếu hiểu là Thiên Chúa muốn
đau khổ cho con người). Cần phân biệt sự khác nhau giữa “Ý Chúa muốn” và “Chúa
cho phép xảy ra”. Ý của Thiên Chúa rõ ràng là cho thế gian được cứu chuộc, tuy
nhiên Thiên Chúa cho phép chúng ta và vũ trụ được tự do đáp trả lời mời gọi này
trong nhiều cách. Không phải mọi sự xảy ra đều là Ý Thiên Chúa, vì còn có tự do
của con người đóng góp đưa đến những kết quả này. Vì thế, nếu nói Ý Chúa dẫn đến
những đau khổ, liệu ta có vẽ lên một Thiên Chúa độc ác không? Và nếu Thiên Chúa
muốn những điều ác độc như thế, Thiên Chúa đó không đáng cho ta tôn thờ.
Thứ năm, tránh từ ngữ Thiên Chúa trừng phạt
con người. Quan niệm trong dân gian về sự thưởng phạt nhãn tiền
của thần thánh khiến nhiều khi ta dùng từ ngữ cắt nghĩa những hiện tượng trước
mắt như sự trừng phạt của Thiên Chúa. Nhiều người còn trích dẫn các câu chuyện
Kinh Thánh trong Cựu Ước để chứng minh Thiên Chúa “thưởng phạt nhãn tiền” những
ai chống lại Ngài. Giáo lý Công giáo dạy rằng có sự Thưởng – Phạt ở đời sau.
Tuy nhiên, nếu kết án Thiên Chúa (Thưởng) – Phạt thì ta trốn trách nhiệm tự do
con người sử dụng. Nếu một người sống đời tội lỗi, và kết quả sau này là phải bị
xuống hỏa ngục trầm luân, liệu đây là hình phạt Thiên Chúa áp dụng cho họ, hay
chính họ tự chọn cái kết cho chính mình? Trong một đất nước dân chủ và sống
theo pháp luật như Hoa Kỳ, những ai ở trong tù không phải bị chính phủ Phạt,
cho bằng họ có hành động gì sai, và tự họ Phạt họ trong tù qua sự can thiệp của
chính quyền.
Thứ sáu
là Số phận. Đây là quan niệm Phật
giáo, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người dân Việt nam, và nhiều người Công
Giáo cũng bị ảnh hưởng. Điều bị hiểu lầm nhiều nhất là quan niệm “số phận” hạn
chế hay dẹp bỏ tự do định đoạt của con người, và điều này sai với giáo lý Công
Giáo. Quan niệm “tiền định” được nhắc đến trong thư Phao lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi
sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người
kêu gọi theo như ý Người định.29 Vì những ai Người đã biết từ trước,
thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con
của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc.30 Những ai Thiên
Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người
cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người
cũng cho hưởng phúc vinh quang.” (Rm 8:28-30)
Tiền
định là tín lý thuộc về kết cục chứ không là bắt đầu trong đời sống Kitô hữu,
nghĩa là nói đến hậu kết của đời sống mỗi người sau này. Ngay câu đầu “chúng ta biết rằng, Thiên Chúa làm cho mọi
sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người” được xem là câu tiêu chuẩn
để hiểu đúng nhất về tiền định. Tin vào Chúa Kitô là không để bất cứ yếu tố ngoại
cảnh nào hủy hoại ý định và mục đích Thiên Chúa dành cho mỗi con người, đó là
yêu thương và kết hợp với Ngài muôn đời: “Đúng
thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương
quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,39 trời
cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giesu, Chúa chúng
ta.” (Rm 8:38-39)
Thứ bảy,
tránh cực đoan và cuồng tín. Khi Đức
Thánh Cha và các giám mục quyết định không dâng thánh lễ để tránh tập trung
đông người khiến bệnh dịch có thể lây lan, một số người lên án quyết định này
khi cho rằng đây là quyết định sai lầm, hay cho rằng những ai tin vào Đức Kitô
thì “dù cầm rắn trong tay, hay uống nhầm
thuốc độc cũng chẳng sao” (Mk 16:18). Nghĩa là, họ cho rằng tham dự thánh lễ
chung nơi đông người không làm họ lây nhiễm coronavirus. Đây là lý luận “cùn”
vì họ quên rằng chính Thiên Chúa là Đấng tạo nên mọi sự (cả coronavirus) và cho
nó luật tự nhiên (là gây hại khi nhiễm vào con người).[3]
Vì
thế, chúng ta nên nhắc nhở vài điều quan trọng:
Đầu tiên, sự dữ và đau khổ sẽ được chế ngự
bởi tình thương và cảm thông (chia sẻ). Chúng ta tin Giáo Hội
là Thân Thể mầu nhiệm Đức Kitô, và tất cả là anh chị em một nhà. Ông Gióp dù
không hiểu tại sao mình chịu đau khổ (bỏ rơi), nhưng chính ông không quên nâng
đỡ những người bất hạnh: “Con kêu lên
Ngài, nhưng Ngài không đáp, con trình diện Ngài, nhưng Ngài chẳng lưu tâm. 21
Ngài đối xử với con tàn nhẫn… 24 Dù vậy, nào tôi đã chẳng giơ tay trợ
giúp, kẻ khốn cùng kêu cứu lúc lâm nguy? Tôi đã chẳng khóc người lầm than vất vả,
chẳng động lòng thương kẻ túng nghèo?” (Job 30:20-25) Thánh Phaolô khẳng định
rằng Thiên Chúa cũng cảm thông với ta trong mọi hoàn cảnh: “Người [Thiên Chúa] luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan
thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi
những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.” (2 Cor 1:4)
Thứ hai,
đau khổ cần được san sẻ, và sự dữ (evil)
cần phải đối đầu. Đó cũng là lý do cho ông ta dạy khi ai gặp nạn thì mình đến
“chia buồn” (còn ai hạnh phúc thì mình đến “chung vui” chứ không lấy bớt đi hạnh
phúc của họ). Vì thế, việc thăm viếng, an ủi, cầu nguyện và nâng đỡ nhau trong
lúc khốn quẩn vô cùng quan trọng, vì đây là dấu chỉ cụ thể sự hiện diện của
Thiên Chúa với những ai đang đau khổ qua trung gian của chúng ta. Trong kinh
tin kính các tông đồ, khi tuyên xưng “Đức
Giêsu xuống ngục tổ tông” là nói đến chính Đức Giêsu chia sẻ những đau khổ
con người, và “ngục tổ tông” là bước
cuối cùng con người chịu được trước khi được cứu chuộc để về kết hợp với Thiên
Chúa. Chính đau khổ gắn bó con người với nhau, và gắn bó Thiên Chúa với con người,
qua Đức Kitô, Đấng sống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi (Heb 4:15).
Cuối cùng,
hy vọng là niềm tin Kitô giáo. Chúng
ta luôn sống trong hy vọng, và đức tin vào Chúa Giêsu Kitô là động lực của mọi
hy vọng. Hy vọng không chỉ nhắm đến đời sau, mà còn ở đời này. Nếu những gì ta
mong ước không được như ý ở đời này, thì chính hy vọng cho ta động lực và ý
nghĩa sống. Đức Kitô là hy vọng của mọi người (1 Tim 1), và trong Đức Kitô con
người hy vọng được cứu rỗi: “Vậy giờ đây,
những ai ở trong Đức Kitô, thì không còn bị lên án nữa.” (Rom 8:1). Hơn nữa,
chính sự sống lại của Đức Kitô đem lại cho nhân loại hy vọng (1 Cor 15 ff), vì “sự chết là kẻ thù cuối cùng đã bị đánh bại”
(1 Cor 15:26), và Chúa Kitô Phục Sinh cho ta niềm tin để sống, cho ta giá trị
và lý do để chết.
Mat.
Nguyễn Khắc Hy PSS
Giám Đốc Chủng Viện Assumption tại San Antonio, Texas.
[1] “Ba Bí Mật Fatima” là cụm từ nói
đến những điều Mẹ Maria nhắn với ba em Lucia Santos, Jacinta Marto và Francisco
Marto khi hiện ra 6 lần với các em từ ngày 13-5-1917 đến 13-10-1917. Theo
Lucia, ngày 13-7-1917 Mẹ Maria trao cho các em Ba Bí Mật. Năm 1941, theo yêu cầu
của đức giám mục Jose Alves Correia da Silva, giám mục Leiria, Lucia đã tiết lộ
Hai Bí Mật, nhưng không muốn tiết lộ Bí Mật Thứ Ba. Tháng 10 năm 1943, theo yêu
cầu của đức giám mục địa phương, chị Lucia tiết bộ Bí Mật Thứ Ba bằng cách viết
thư nhưng dán kín, và xin đợi cho đến năm 1960 rồi mới mở ra, vì lúc đó sẽ “rõ
hơn.” Bức thư Bí Mật Thứ Ba này được đức thánh giáo hoàng Gioan Phao lô II cho
công khai vào năm 2000, nhưng một số vẫn cho rằng đức Gioan Phao lô II đã không
công bố toàn bộ lá thư, dù Vatican đã vài lần lên tiếng chính thức là bức thư
đã được công khai hoàn toàn.
[2] Một số thường trích thư thánh
Phaolô: “Tội lỗi gây nên sự chết; như thế,
sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5:12),
để giải thích đau khổ và sự chết đến thế gian. Đừng quên Đức Giêsu Kitô hoàn
toàn vô tội nhưng Ngài cũng chịu đau khổ và chết. Vì thế giáo lý vẫn dạy sự hiện
diện của sự dữ và đau khổ là một mầu nhiệm.
[3] Mục sư Jamie Coots của nhà thờ
Full Gospel Tabernacle ở Kentucky chết ngày 15-2-2014 khi cầm rắn độc trong tay
để chứng minh cho giáo dân rằng nếu tin thì rắn độc không làm hại ông (xem Mark
16:18). Đến tháng 8-2018, con ông nối nghiệp là mục sư Cody Coots cũng bị rắn cắn
và phải đi nhà thương, nhưng may mắn được cứu sống.
Nhận xét
Đăng nhận xét