ĐẰM THẮM - ĐIỀM ĐẠM - KÍN ĐÁO
NÉT ĐẸP THIÊNG LIÊNG CỦA NHÀ TRUYỀN GIÁO
Nhà truyền giáo không được sai đi «tham
quan, ngao du sơn thủy », nhưng được sai đi làm việc như người gieo hạt tận tụy (x. Mt 13, 4-8), sai đi rất xa, đến với mọi
người, ở khắp mọi nơi để rao giảng « Nước Thiên Chúa đã gần », và với
quyền năng của Thiên Chúa « chữa người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại,
cho người phong hủi được sạch bệnh, và trừ khử ma quỷ » (Mt 10,7-8). Nhà
truyền giáo còn được sai vào nơi rất nguy hiểm, đầy chông gai và đe dọa
« như chiên đi vào giữa bầy sói » (Mt 10,16) và còn như người đi buôn
phải vận dụng mọi khả năng để làm sinh lợi gấp hai, gấp năm, gấp mười vốn liếng
được chủ trao (x. Mt 25,14-30).
Như thế, hành trình của nhà truyền giáo
không dễ đi, địa chỉ nhà truyền giáo hoạt động không dễ đến, môi trường, hoàn cảnh
nhà truyền giáo tiếp cận không luôn thuận lơi, công việc của nhà truyền giáo
không dễ thực hiện, và nhất là những con người nhà truyền giáo gặp gỡ, phục vụ,
đồng hành không luôn dễ hiểu, dễ sống, dễ nói dễ nghe, dễ thương, dễ cộng tác.
Cũng vì thế mà Đức Giêsu đã chỉ cho các môn
đệ hàng loạt những việc phải làm, và những chuyện phải tránh, trước khi sai các
ông đi truyền giáo (x. Mt 25, 7-14), và
ân cần căn dặn như bửu bối : « anh em phải khôn như rắn và đơn sơ
như bồ câu » (Mt 25,16).
Khôn đây là khôn ngoan, chứ không phải
thói « khôn lỏi, khôn ăn người, khôn lanh, khôn ma le, quỷ quái » của
thế gian, và đơn sơ đây cũng không phải
đơn sơ « ngu ngốc, ngờ nghệch, đờ đẫn, đần độn, hậu đậu, kệch cỡm »
để người đời khinh chê, nhạo cười.
Nhưng làm sao để luôn có được khôn ngoan và
đơn sơ ? Cư xử thế nào để không đánh mất khôn ngoan và đơn sơ ? Cách
sống nào được coi là tốt nhất để bảo đảm khôn ngoan và đơn sơ trong đời truyền
giáo ?
Thiết tưởng, không gì tốt hơn, chính xác
hơn cho nhà truyền giáo là nhìn vào
chính Đức Giêsu, Đấng sai các vị đi truyền
giáo và căn dặn : « phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu ».
1. Đức Giêsu đã đằm thắm, điềm đạm trong mọi hoàn
cảnh và với mọi người :
Chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, thay
vì bối rối, mất tinh thần, Đức Giêsu điềm đạm « dạy » cho ma quỷ Lời
Thiên Chúa, và chúng phải tháo lui (x. Mt 4,1-11) ; khi bị mấy ông kinh sư
hỗn xược chụp mũ « phạm thượng », thay vì nóng giận « đốp
chát », Đức Giêsu điềm đạm cắt nghiã và đề nghị: « Trong hai điều: một
là bảo: « Con đã được tha tội rồi », hai là bảo: « Đứng dậy mà
đi », điều nào dễ hơn ? » (Mt 9,5).
Đức
Giêsu còn điềm đạm trước những lời « xóc óc, móc họng », khiêu khích,
miệt thị, cả những xúc phạm, nguyền rủa, đe dọa, xua đuổi, tấn công của nhóm Biệt
Phái như khi thấy Ngài ăn uống với người tội lỗi, họ đã khích bác, châm chọc cốt
để Ngài « nổi quạo » to tiếng. Trái lại, Đức Giêsu đã điềm đạm giải
thích cho họ sứ mệnh của Ngài : « Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc,
người đau ốm mới cần » (Mt 9, 12). Bị trách móc không ăn chay, thay vì « nổi
đóa », Đức Giêsu điềm đạm trả lời : « Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới
lại có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ ? » (Mt 9, 15). Cả khi bị
đám đông quá khích chửi rủa và lượm đá ném, vì Ngài nói: « Ông Ápraham là
cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy
và đã mừng rỡ » (Ga 8, 56), Đức Giêsu cũng vẫn điềm đạm « lánh đi và
ra khỏi Đền Thờ » (Ga 8, 59), mà không gay go, gây hấn ; và sau cùng, khi các thủ lãnh Do Thái quyết định
giết Ngài, sau phép lạ cho Ladarô sống lại sau bốn ngày chôn trong mồ, Đức
Giêsu vẫn điềm đạm ứng xử, và « không đi lại công khai giữa người Do Thái
nữa » (Ga 11, 54). Rồi những ngày chịu nạn: từ khi bị bắt đến lúc chịu
đóng đinh, trước không biết bao nhiêu nhục mạ, cực hình, lên án bất công, Đức
Giêsu vẫn một thái độ đằm thắm, điềm đạm trước mọi người: không một lời nguyền
rủa, không một lần phẫn nộ.
Đặc
biệt với các môn đệ, Đức Giêsu luôn đằm thắm, điềm đạm, như khi thấy các ông
tranh giành chỗ cao thấp, địa vị lớn nhỏ, Ngài đằm thắm, điềm đạm nói với các
ông : « Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và
làm người phục vụ mọi người » (Mc 9, 35) ; khi Giuđa phản bội, Ngài cũng vẫn
điềm đạm trả lời câu hỏi giả hình của ông (x.Mt 26, 25) ; cả khi Phêrô nóng nẩy
chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế trong vườn Cây Dầu, nơi Ngài bị bắt, Đức
Giêsu cũng điềm đạm nhắc nhở ông : « Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những
ai cầm gươm sẽ chết vì gươm… » (Mt 26,52).
Quả thực, có đằm thắm, điềm đạm, nhà truyền
giáo mới tránh được những « thái quá, bất cập », là nguyên cớ của nhiều
thất bại, vì đằm thắm, điềm đạm là thái độ của người biết phân định, trung
dung, không quá khích, quá đáng, cũng không lười biếng, buông xuôi.
Đằm
thắm, điềm đạm còn là đức tính cần thiết của nhà truyền giáo, vì xuất phát từ tâm hồn « hiền lành và khiêm nhuờng »
(Mt 11,29), bài học quan trọng và nền tảng Đức Giêsu dạy, mà bất cứ ai muốn đi
theo Ngài đều phải nằm lòng và cố gắng thực thi trong đời sống.
Đằm thắm, điềm đạm còn là chìa khóa Đức
Giêsu ban cho nhà truyền giáo, để các vị thành công trong sứ vụ thiêng liêng được
trao phó, bởi thiếu đằm thắm, điềm đạm, các vị rất khó có thể đến với muôn dân,
rất khó đi vào lòng người, rất khó vào được nhà người khác, và vô cùng khó
« ở lại bình an » với mọi người, vì thiếu đằm thắm, nhà truyền giáo sẽ
ứng xử một cách cứng cỏi, thô kệch, dễ đưa đến trịch thượng, hống hách, kiêu
căng, cửa quyền, kẻ cả đối với mọi người ;
thiếu điềm đạm, nhà truyền giáo cũng sẽ bốc đồng, nóng nẩy, hiếu chiến, hiếu thắng,
trong lời nói và cung cách, dễ đưa đến đôi co, hơn thua, thách thức, bạo lực, là điều cấm kị đối với
nhà truyền giáo.
Sở dĩ là điều cấm kị ở nhà truyền giáo, vì
thái độ, lời nói, hành động thiếu đằm thắm, điềm đạm sẽ gây nên ấn tượng xấu về
một nhà truyền giáo « kiêu căng, áp chế, khuynh đảo, xâm lăng »,
không tôn trọng, không yêu thương, không phục vụ, trong khi hình ảnh cần có ở
nhà truyền giáo là « hiền lành và khiêm nhường », đơn sơ và nghèo
khó, phục vụ trong niềm vui, yêu thương đến quên mình, như chính Đức Giêsu.
Trong thực tế, không thiếu những nhà truyền
giáo đã thất bại ngay vòng đầu, vì thiếu đằm thắm, điềm đạm, mặc dù làm đúng
quy trình truyền giáo: Những vị này tuy có « vào nhà người xứng đáng và ở
đó » như Đức Giêsu dặn (x. Mt 10,11), nhưng vì ăn nói « linh tinh, lôm
côm, huyênh hoang, biết ít nói nhiều », lại thường háo thắng, giành diễn
đàn, chiếm micrô « độc thoại », nên chủ nhà mệt mỏi, ngao ngán mời
đi ; những nhà truyền giáo mà « vào nhà nào cũng chúc bình an
cho nhà ấy » (Mt 10,12), đúng như Đức Giêsu dặn, nhưng vì thiếu đằm thắm
và điềm đạm, các vị đã làm bình an « hoảng sợ và bỏ chạy mất
dép » : không ở lại với nhà ấy, mà cũng không « trở về với các vị ».
Thực
vậy, nhà truyền giáo, noi gương Đức Giêsu, càng đằm thắm trong cung cách cư
xử, càng điềm đạm khi ăn nói, càng đem lại nhiều kết quả thiêng liêng trong
truyền giáo, bởi đó là máng chuyển dễ thương, dễ tiếp cận, dễ cảm thông, dễ đi
vào lòng người, dễ đưa vào nhà người Lời hằng sống, Bánh trường sinh, Ơn cứu độ,
đặc biệt là lời chứng sống động, đầy sức thuyết phục của nhà truyền giáo về Đức
Giêsu hiền lành, nhân hậu, Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân
loại.
2. Đức
Giêsu yêu thích kín đáo :
Nét đẹp thứ hai mà nhà truyền giáo cần có để
giữ được « khôn ngoan và đơn sơ » trong đời truyền giáo chính là biết
sống kín đáo, như Đức Giêsu.
Kín đáo ở đây không được hiểu là
« thiếu cởi mở, khép kín, đóng chặt cửa tâm hồn, hà tiện lời ăn tiếng nói,
và không trao đổi, chia sẻ tâm sự hay công việc với ai ». Trái lại, kín
đáo là đức tính cần thiết, đúng hơn rất cần thiết ở nhà truyền giáo, vì chính sứ
vụ truyền giáo đòi hỏi.
Nhà truyền giáo cần kín đáo, vì sứ vụ lắng
nghe tâm sự thiêng liêng của các tâm hồn, sứ vụ băng bó, chữa lành những vết
thương nội tâm, sứ vụ giải thoát linh hồn người khác khỏi xiềng xích, ngục tù của
tội lỗi, sứ vụ chia sẻ, đồng hành, hướng dẫn con người trên đường nên thánh,
chưa kể những vị mang sứ vụ « tha tội » được Giáo Hội trao phó, và tất
cả các sứ vụ đó đều đòi ở các vị sự kín đáo, thận trọng. Nếu không sẽ chẳng còn
ai dám tin tưởng, và ký thác tâm sự thầm
kín, thiêng liêng ở các vị.
Sự
kín đáo nơi nhà truyền giáo không những phải được triệt để tuân giữ khi thi
hành sứ vụ thiêng liêng, mà ngay trong
giao tế bình thường trong đời thường, đức tính ấy cũng không thể thiếu, nếu các
vị muốn được mọi người kính trọng, bởi khó có thể chấp nhận một nhà truyền giáo
thiếu kín đáo, không giữ kín được điều cần phải giữ kín, không bảo đảm được bí
mật của những gì liên quan đến danh dự, uy tín, hạnh phúc của người khác, để rồi
bất cứ chuyện riêng tư của ai, vấn đề nhậy cảm của gia đình nào chẳng may
« bị » các vị biết đều sẽ mau chóng biến thành chuyện công cộng, chuyện
công khai, chuyện của công chúng, chuyện của « bàn dân thiên hạ ».
Trong thực tế đã có nhiều phũ phàng đáng
tiếc xảy ra cho nhà truyền giáo, khi các vị không quan tâm đến đòi hỏi phải kín
đáo, tế nhị, thận trọng trong giao tế, và hậu quả là công việc truyền giáo không đem
lại kết quả, khi các vị bị coi là người không đáng tin, thiếu kín đáo, và mọi
người rỉ tai nhau coi thường, xa lánh.
Quả
thực, trong Tin Mừng, Đức Giêsu luôn nhắc nhở các môn đệ phải kín đáo: kín đáo
khi cầu nguyện, ăn chay, chia sẻ, làm phúc bố thí vì « Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín
đáo.. Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh» (Mt 6,4. 6.18.).
Cả ba việc đạo đức quan trọng là cầu nguyện,
ăn chay và làm phúc bố thí đều được Đức Giêsu đặt trong tình trạng kín đáo, âm
thầm, không khoa trương, ồn ào, nặng phần trình diễn, khoe khoang, cốt để mọi
người biết mà tấm tắc khen ngợi, tuyên dương, vì Ngài biết: nhà truyền giáo sẽ
không còn « khôn ngoan và đơn sơ » khi được thiên hạ « cho lên
mây » với những lời tung hô « có cánh » ; sẽ không
« hiền lành và khiêm nhường » như đầy tớ chỉ biết làm việc chủ trao
phó ; sẽ không sống đơn sơ như người môn đệ « hoàn toàn phó
thác » vào Thiên Chúa, Cha mình, mà chẳng thu gom, vun vén, cẩn thận chuẩn
bị tương lai, tuổi già. Trái lại, nhà truyền giáo được đám đông cuồng tín sùng
bái, hâm mộ, vì « thích » tỏ mình giỏi giang, « biết cách »
tỏ mình thánh thiện, đạo đức, « chăm chút » tỏ mình vượt trội hơn anh
em về mọi mặt trước sau cũng sẽ vấp ngã nặng nề, vì không còn khôn ngoan để
phân định, và đơn sơ để được mọi người tin tưởng, yêu mến.
Ngoài những căn dặn phải kín đáo khi cầu
nguyện, ăn chay, bố thí, Đức Giêsu còn làm gương kín đáo trong đời sống của
Ngài, như khi làm phép lạ, Ngài thường dặn dò người vừa được Ngài chữa lành
: « Đừng nói với ai cả » (Mt 8, 4), hoặc tự Ngài kín đáo « lánh
đi, vì có đám đông ở đấy » (Ga 5, 13).
Vâng, mùa chay không chỉ là mùa « cá
nhân sám hối, bản thân trở về », nhưng còn là mùa truyền giáo, vì truyền
giáo là căn tính của mọi Kitô hữu, nghĩa là tất cả chúng ta, khi lãnh nhận bí
tích Thánh Tẩy đểu trở thành nhà truyền giáo, đều mang sứ vụ truyền giáo, đều
được Thiên Chúa sai đi truyền giáo, nên việc sám hối cá nhân, việc trở về của bản
thân trong mùa chay cũng là việc truyền giáo của cộng đoàn dân Chúa, việc lên
đường cùng toàn thể Giáo Hội đến với muôn dân, và « mùa chay trở về » được
biến thành « mùa chay ra đi », mùa chay sám hối trở nên « mùa
chay được đổi mới » cùng với mọi
người nhờ dấn thân truyền giáo, lên đường
loan báo Tin Mừng.
Và thành quả truyền giáo ít hay nhiều sẽ
tùy thuộc tấm lòng của người được sai đi, hệ tại ở sự vâng phục, và làm theo những
gì Đấng sai đi đã căn dặn : « Anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như
bồ câu » (Mt 25,16).
Jorathe Nắng Tím
Nhận xét
Đăng nhận xét